Test lẩy da – Tầm soát dị ứng

Được áp dụng từ hơn 150 năm, phương pháp Test lẩy da được xem là công cụ trong tầm soát dị ứng. Phương pháp này cung cấp bằng chứng khẳng định cho việc có mẫn cảm với 1 kháng nguyên dị ứng đặc hiệu nào hay không, là yếu tố tiên lượng đóng vai trò quan trọng  trong 1 số bệnh.

 

Lịch sử

  • Test lẩy da (Skin tests) là công cụ ban đầu trong tầm soát dị ứng từ khi được giới thiệu bởi Blackley năm 1865.
  • Test nội bì được đưa ra bởi Mantoux năm 1908.
  • Test lẩy da (prick-puncture test) do Lewis and Grant đưa ra năm 1924. Từ đó, với vài thay đổi của Pepy, đã phổ biến vào năm 1970.

 

Vai trò Skin tests

  • Skin test cung cấp bằng chứng khẳng định cho việc có mẫn cảm với 1 kháng nguyên dị ứng đặc hiệu, cho phép BS lâm sàng khẳng định hay loại trừ tình trạng dị ứng cơ địa, là yếu tố tiên lượng đóng vai trò quan trọng trong 1 số bệnh như suyễn.
  • Skin tests an toàn, chi phí thấp, đơn giản, cho kết quả nhanh, độ nhạy cao. Tuy nhiên nếu thực hiện không đúng kỹ thuật sẽ dễ dẫn đến dương tính giả và âm tính giả.
  • Ngoài ra, skin tests còn được ứng dụng trong chuẩn hóa kháng nguyên, trong ngành dược, các nghiên cứu về miễn dịch học và dịch tễ học.

 

Các test dị ứng thường gặp

  • Skin test

– Test lẩy da (prick-puncture test): kháng nguyên được đặt lên trên bề mặt da và được đưa vào lớp biểu bì bằng dụng cụ chuyên biệt.

– Test nội bì (intradermal test): kháng nguyên được tiêm vào lớp nội bì .

  • XN IgE đặc hiệu: định lượng IgE đặc hiệu kháng nguyên trong máu.
  • Challenge test: kháng nguyên tiếp xúc với cơ quan (phế quản, mũi, miệng).

 

Chứng dương và chứng âm

  • Khi làm test, sẽ có những biến thiên xảy ra trong phản ứng của da ở mỗi cá nhân, nên việc sử dụng chứng dương và chứng âm là cần thiết.
  • Chứng âm là dung dịch để bảo quản mẫu kháng nguyên thử. Tất cả các chứng âm test trên da đều phải âm tính.
  • Chứng âm giúp loại trừ những trường hợp dương tính giả (thao tác gây chảy máu, chất lượng allergen extracts, bệnh da vẽ nổi, nhiễm RSV, điều trị thuốc kháng giun sán).
  • Chứng dương phổ biến là Histamin. Tất cả chứng dương đều phải dương tính.
  • Chứng dương giúp loại trừ các trường hợp âm tính giả (thuốc kháng dị ứng hoặc bệnh ngăn phản ứng dị ứng, bệnh nhân cơ địa phản ứng kém với Histamin, kỹ thuật làm test hay chất lượng extracts).

Một nghiên cứu lớn, đa trung tâm ở châu Âu trên 3034 cá thể cho thấy dị nguyên đường hít là dị nguyên phổ biến nhất. 18 dị nguyên đường hít thường gặp đã được đưa ra và chuẩn hóa để sử dụng cho SPT ở châu Âu. Tùy theo từng nước, từ 2-9/18 dị nguyên hít là đủ phát hiện 95% trường hợp dị ứng.

 

Cách tiến hành

  • Giải thích cho người nhà và trẻ.
  • SPT được thực hiện ở mặt gấp của cẳng tay, tránh vị trí 5cm từ vùng khuỷu hoặc 3 cm từ hõm khuỷu.
  • Không làm test trên vùng da bị tổn thương sẵn có. Ở trẻ dưới 3 tuổi, lưng là vị trí dễ làm hơn.
  • Làm sạch da bằng chất sát khuẩn bay hơi. Không dùng cream.

  • Đánh dấu vị trí test lên tay. Các vị trí test phải cách nhau >2cm để tránh dương giả.
  • Nhỏ 1 giọt kháng nguyên lên vị trí đánh dấu. Lưu ý chứng dương, chứng âm.

  • Dùng lancet ấn nghiêng 30° xuyên qua giọt kháng nguyên vào vùng da rồi lẩy nhẹ. Không được làm xước hay chảy máu.

  • Thay lancet cho mỗi kháng nguyên.
  • Sau 1 phút, trải khăn giấy thấm các kháng nguyên dư. Không xoa kéo gây trộn các kháng nguyên gây nhiễm chéo.
  • Đọc kết quả sau 10-15ph.

 

Kết luận

  • Skin tests an toàn,chi phí thấp, đơn giản, cho kết quả nhanh, độ nhạy cao. Khi kỹ thuật thực hiện đúng, SPT là công cụ chủ đạo trong tầm soát bệnh lý miễn dịch thông qua trung gian IgE.
  • Việc thực hiện phải đi cùng với hỏi kỹ bệnh sử, bởi còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích kết quả test.

Ths. BS Lý Kiều Diễm

Phó Trưởng khoa Nội Tổng hợp,

Bệnh viện Nhi đồng Thành phố

Theo Tạp chí Sức Khỏe – khoe24h.vn

Posted in: Tin y tế