(Sức Khỏe) Nằm trước cổ, là tuyến nội tiết lớn nhất, tuyến giáp có nhiệm vụ tiết ra hormone giáp với lượng vừa đủ nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển hóa của các mô trong cơ thể. I-ốt chủ yếu được sử dụng để tổng hợp hormone giáp.
Để suôn sẻ hoàn thành nhiệm vụ, mỗi ngày, tuyến giáp phải nhận đủ lượng i-ốt. Muốn không bị thiếu hụt, cơ thể cần nạp ít nhất 100µg i-ốt/ngày. Việc cung cấp i-ốt trong khẩu phần ăn hằng ngày rất khác nhau giữa các vùng, miền trên thế giới. Ngay cả giữa những người sống trong một vùng, sự hấp thu i-ốt cũng không như nhau và trên một cá thể, nó cũng thay đổi theo ngày. I-ốt vào cơ thể qua thức ăn, thuốc, chất cản quang dùng trong chẩn đoán bệnh (khi chụp CT có cản quang hoặc chụp mạch máu…) và trong các thực phẩm có bổ sung i-ốt.
|
Muốn không bị thiếu hụt, cơ thể cần nạp ít nhất 100µg i-ốt/ngày (Ảnh internet)
|
Thiếu i-ốt, dễ bướu giáp địa phương
Thiếu i-ốt thường xảy ra ở miền núi hoặc ở vùng băng tuyết quanh năm. Thống kê cho thấy, số người bị thiếu i-ốt lên đến con số 1 tỷ trên toàn thế giới. Những người ở vùng này dễ bị bướu giáp địa phương, tức tuyến giáp to do tăng sinh bù trừ cho sự thiếu hụt.
Những rối loạn do cơ thể không nhận đủ i-ốt gồm bệnh bướu cổ địa phương và bệnh lùn. Để đánh giá mức độ thiếu hụt, cần đo nồng độ i-ốt trong nước tiểu. Tỷ lệ suy giáp và đần độn gặp nhiều ở người thiếu i-ốt trầm trọng.
Nếu thiếu hụt nặng trong thời kỳ mang thai, sản xuất hormone giáp ở bào thai giảm sút gây tổn hại hệ thần kinh trung ương, biểu hiện bằng chậm phát triển tinh thần với nhiều mức độ khác nhau.
Ở nước ta, có khoảng 9 triệu người sống ở miền núi và các cao nguyên có nguy cơ mắc rối loạn thiếu hụt i-ốt. Tỷ lệ bị bướu giáp địa phương ở các tỉnh này dao động từ 16-40%.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ mắc bướu giáp địa phương cũng đến 4%. (Tuy nhiên, cần biết rằng, những nơi cung cấp đầy đủ i-ốt vẫn có thể xảy ra bướu giáp. Thiếu hụt i-ốt không phải là nguyên nhân duy nhất gây bướu giáp địa phương).
Thừa i-ốt gây cường giáp
Tuyến giáp cũng cần bảo vệ để không nhận quá nhiều i-ốt. Những chất cản quang chụp mạch máu, thuốc amiodarone và povidone iodine, bổ sung i-ốt vào khẩu phần ăn… là nguồn cung cấp i-ốt thừa thường thấy.
Thừa i-ốt có thể dẫn đến cường giáp, là tình trạng tăng tiết nhiều hormone giáp. Đã ghi nhận sự gia tăng cường giáp trên những người đột ngột thay đổi từ chế độ ăn ít i-ốt sang dùng nhiều chất này.
Tại những vùng có bướu giáp địa phương, việc bổ sung muối i-ốt giúp giảm bệnh bướu giáp địa phương nhưng vẫn có những trường hợp mới mắc cường giáp do i-ốt (tỷ lệ 1,5%). Diễn tiến của cường giáp trong những trường hợp này thường nhẹ, thoáng qua. Hầu hết xảy ra trên người có bướu giáp đa nhân. Trên thực tế, cường giáp do i-ốt có thể xảy ra trên người bệnh lớn tuổi sau khi chụp sử dụng thuốc cản quang có i-ốt. Những đối tượng này có tỷ lệ cao bị bướu giáp đa nhân sẵn từ trước.
Ngoài ra, bệnh nhân bị bệnh Basedow tiềm ẩn hoặc Basedow đã điều trị ổn định sẽ bị cường giáp nếu dùng nhiều i-ốt. Lượng i-ốt trong khẩu phần chỉ tăng một chút hoặc sau khi dùng chế phẩm có i-ốt là yếu tố thúc đẩy tái phát cường giáp sau điều trị.
Amiodarone vốn là thuốc dùng điều trị loạn nhịp tim hiệu quả và đã được dùng phổ biến. Cường giáp và suy giáp là các tác dụng phụ liên quan đến tuyến giáp, khi thuốc được dùng liều cao và kéo dài. Y học đã ghi nhận cường giáp do amiodarone thường xảy ra ở vùng thiếu i-ốt tương đối còn suy giáp do amiodarone lại xảy ra ở vùng có đủ hoặc thừa i-ốt.
Cường giáp do amiodarone có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào sau khi dùng thuốc. Trên người bệnh tim mạch đang dùng amiodarone, nếu các triệu chứng tim mạch sẵn có trở nên nặng hơn nên cảnh giác cường giáp do amiodarone. Triệu chứng cường giáp thường xuất hiện nhanh và không có thay đổi về sinh hóa báo trước. Vì thế, với người có chỉ định dùng amiodarone, nên thử chức năng tuyến giáp trước khi dùng thuốc và theo dõi cẩn thận các biểu hiện của người bệnh.
|
Nên đi khám nếu thấy có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh tuyến giáp
|
Thừa i-ốt trong thời gian dài có thể gây bướu cổ và suy giáp. Khi có quá nhiều i-ốt vô cơ trong tế bào tuyến giáp, quá trình hữu cơ hóa i-ốt lúc đầu sẽ tăng nhưng về sau sẽ giảm do giảm gắn kết tương đối. Tuy nhiên, cơ thể luôn thích nghi để tự thoát khỏi sự ức chế: I-ốt hữu cơ trong tuyến giáp giảm đến mức sự ức chế nói trên không thể duy trì. Lưu ý, hiện tượng thoát này không diễn ra ở bào thai trong ba tháng mang thai giai đoạn cuối.
TS. BS. Lê Tuyết Hoa
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. HCM
Tạp chí Sức Khỏe