Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch, do virút sởi thuộc họ Paramixovirut influenzae, giống Morbillivirut gây nên, bệnh thường gặp ở trẻ em.
1. Bệnh sởi
Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch, do virút sởi thuộc họ Paramixovirut influenzae, giống Morbillivirut gây nên, bệnh thường gặp ở trẻ em. Bệnh lây qua đường hô hấp. Bệnh được biểu hiện bởi sốt cao đột ngột, viêm long đường hô hấp, khám miệng có thể thấy nốt Koplik sau đó phát ban, xen kẻ giữa các ban là các khoảng da lành tuần tự bắt đầu từ sau tai lan ra đầu mặt cổ sau đó lan xuống thân mình và tứ chi. Khi ban đã lan xuống chi thì bắt đầu bay theo tuần tự như khi xuất hiện và để lại các vết thâm vằn da hổ. Trường hợp nặng có thể phát ban kèm theo xuất huyết, biến chứng bội nhiễm vào các cơ quan hoặc xuất hiện viêm não chất trắng sau sởi. Chẩn đoán xác định khi phân lập được virút sởi trong máu hoặc xét nghiệm huyết thanh học 2 lần bằng phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu thấy động lực kháng thể tăng gấp 4 lần hoặc xét nghiệm thấy xuất hiện
2. Bệnh bại liệt
Bại liệt là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virút bại liệt gây nên. Bệnh được biểu hiện bởi sốt nhẹ, tiêu chảy và liệt mềm cấp tính, khi liệt thì hết sốt. Bệnh lây theo đường tiêu hóa. Virút xâm nhập theo đường tiêu hóa sau đó lan vào hạch mạc treo rồi đến hệ thần kinh. Liệt thường xuất hiện khi có các tổn thương bất chợt sau tiêm chích và chỉ xuất hiện khoảng 1% ở những người bị nhiễm virút. Thường có đau cơ trước khi liệt. Liệt do bệnh bại liệt là liệt mềm, không đối xứng. Thường bị liệt chân nhiều hơn tay. Nếu liệt cơ hô hấp có thể dẫn tới tử vong. Khoảng 1% có biểu hiện viêm màng não nước trong. Ðến 90% các trường hợp nhiễm virút bại liệt ở thể ẩn, không có biểu hiện lâm sàng. Tháng 10/2000, Tổ chức Y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương tuyên bố đã thanh toán được bệnh bại liệt. Ngày 15/12/2000, Việt Nam cũng đã công bố thanh toán được bệnh bại liệt. Tuy nhiên, do nhiều nước trên thế giới vẫn chưa thanh toán được bệnh bại liệt nên việc dự phòng bằng vaccin cho trẻ em vẫn cần được tiếp tục.
3. Bệnh uốn ván
Uốn ván là một bệnh cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván (clostridium tetani) gây ra. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào dòng máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh cơ làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Cơn co giật thường xuất hiện khi có kích thích nhưng cũng có thể xuất hiện tự nhiên. Tùy theo mức độ nhiễm độc, vị trí vết thương và độ rộng cũng như điều kiện yếm khí tại vết thương, biểu hiện lâm sàng có thể là uốn ván khu trú (uốn ván thể đầu, giật một chi.) hay uốn ván toàn thể.
Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4-21 ngày, thường trong vòng 7-10 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.
Uốn ván sơ sinh là một trong những nguyên nhân gây chết hàng đầu ở một số nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ nhưng ở các nước phát triển đây là một bệnh thường gặp ở người già.
Tỷ lệ tử vong của uốn ván tuỳ thuộc vào điều kiện hồi sức cấp cứu và điều trị sớm hay muộn, nhưng thường tỷ lệ chết rất cao có thể từ 10-80%. Việc điều trị bao gồm việc xử trí mở rộng vết thương loại bỏ điều kiện yếm khí, dùng penicillin để diệt vi khuẩn kết hợp với liệu pháp huyết thanh, chống co giật và hồi sức.
Tuy nhiên, uốn ván có thể dự phòng dể dàng nhờ có vaccin. Vaccin uốn ván thường được sản xuất phối hợp với vaccin phòng bạch hầu và ho gà.
IgM đặc hiệu trong huyết thanh bằng phản ứng MAC-ELISA.
4. Bệnh bạch hầu
Bạch hầu là một bệnh lây cấp tính gây dịch do corynebacterium diphtheriae gây ra. Các bệnh cảnh lâm sàng thường gặp có thể là bạch hầu thường, bạch hầu họng-thanh quản (croup) và bạch hầu ác tính.. Vi khuẩn đột nhập qua da và niêm mạc gây ra các giả mạc dai tại chổ bị nhiễm khuẩn (thường là ở hầu họng, thanh quản, có thể là ở mũi, mắt, dạ hoặc bộ phận sinh dục) từ đó vi khuẩn tiết ra ngoại độc tố vào máu gây nhiễm độc cơ tim, thận các dây thần kinh trung ương và ngoại biên. Chẩn đoán xác định bệnh bạch hầu khi thấy có giả mạc trắng bóng bám chặt vào niêm mạc, giả mạc dai, dính, lan nhanh ở họng và ngoáy rìa giả mạc cấy có vi khuẩn bạch hầu. Một khi chẩn đoán hoặc nghi ngờ là bạch hầu phải tiến hành điều trị ngay bằng huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (SAD) và các kháng sinh như penicillin hoặc kháng sinh nhóm Macrolides. Tỷ lệ tử vong tùy từng vụ dịch có thể từ 5-10%.
5. Bệnh ho gà
Ho gà là một bệnh truyền nhiễm gây dịch lây qua đường hô hấp do vi khuẩn Bordetella pertussis gây ra. Bệnh lây qua giọt nước bọt ngay tại gia đình với tỷ lệ 70-100%. Trước đây dịch xảy ra có tính chu kỳ cứ 3-4 năm 1 lần. Ở những quần thể chưa được miễn dịch, bệnh có thể bùng phát thành dịch lớn. Dịch chủ yếu gặp ở trẻ em tuổi đi học và trẻ nhỏ trên 6 tháng. Bệnh thường được thể hiện bởi những cơn ho rũ rượi và khạc đờm sau đó. Ho có thể kéo dài tới 3 tháng và thường phối hợp với nôn. Ở trẻ nhỏ nhiều khi chỉ thấy tím tái ngạt thở và co giật. Vi khuẩn ho gà có thể gây bệnh não do thiếu oxy dẫn đến tử vong. Tỷ lệ tử vong chung của bệnh thường là 0,3%, nhưng ở trẻ nhỏ tỷ lệ tử vong có thể lên tới 0,5%. Hàng năm có khoảng 250.000 trẻ em trên thế giới mắc bệnh ho gà. Từ ngày có vacxin tỷ lệ mắc bệnh ho gà đã giảm nhiều.
6. Bệnh lao
Bệnh lao là một bệnh phổ biến trên thế giới do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây nên. Lao phổi là bệnh cảnh lâm sàng hay gặp nhất. Bên cạnh đó có thể gặp lao các bộ phận khác. Hầu hết các trường hợp nhiễm lao không có triệu chứng. Những trường hợp suy giảm miễn dịch bị nhiễm lao sẽ có nguy cơ diễn biến nhanh thành lao toàn thể. Sau khi nhiễm vi khuẩn lao vài tuần sẽ xuất hiện đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào thể hiện qua phản ứng Tuberculin dương tính.
Lao là một bệnh thường gặp ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng hơn 10.000 trường hợp nhiễm lao mới. Bộ y tế đã triển khai chương trình chống lao trên phạm vi toàn quốc với chương trình điều trị ngắn ngày (DOT) và đã giảm đáng kể tỷ lệ mắc. Tuy nhiên trong vài năm gần đây đã xuất hiện lao kháng thuốc với tỷ lệ đáng kể, đặc biệt với sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS, bệnh lao đang có xu hướng gia tăng nhanh trở lại.
7. Bệnh viêm gan B
Virut viêm gan B thuộc nhóm virut Hepadna, là tác nhân gây viêm gan virut B. Ðây là một bệnh phổ biến trên thế giới nhất là khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh. Hàng năm có khoảng 200 triệu người bị viêm gan B. Ở Việt Nam, tỷ lệ người lành mang trùng khá cao từ 15-25%. Bệnh lây qua đường máu, đường tình dục và lây từ mẹ sang con chủ yếu trong kỳ chu sinh. Biểu hiện lâm sàng của bệnh ở thời kỳ khởi phát giống như cảm cúm (còn gọi là biểu hiện giả cúm) như sốt, mệt mỏi, chán ăn, đi tiểu ít và nước tiểu sẫm màu. Người bệnh rất mệt mỏi nhưng tình trạng nhiễm khuẩn lại rất thô sơ.
Trong thời kỳ toàn phát, bệnh nhân thường có biểu hiện vàng mắc vàng da, có thể có phát ban dạng sởi trên da. Thăm khám có thể thấy gan to, đôi khi có lách to. Xét nghiệm thường thấy men gan tăng cao nhất là men SGPT (có thể cao gấp 5-10 lần so với bình thường), Bilỉubine máu tăng. Phần lớn các trường hợp viêm gan cấp diễn biến trong vòng 4-6 tuần rồi khỏi về mặt lâm sàng. Theo qui ước, viêm gan cấp sẽ được ổn định trong vòng 6 tháng. Viêm gan B có thể diễn biến thành viêm gan mạn tính, sơ gan và ung thư gan nguyên phát với các tỷ lệ khác nhau tùy từng khu vực và đáp ứng miễn dịch của cơ thể bệnh nhân.
8. Bệnh viêm não Nhật Bản
Viêm não Nhật Bản là một bệnh nhiễm virut cấp tính ở thần kinh trung ương. Bệnh do virut viêm não Nhật Bản thuộc nhóm Flavi họ arbovirut nhóm B gây ra. Bệnh lưu hành rộng rải ở Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, Thái Lan, Philippin, Malayxia, Việt Nam, Lào, Campuchia, Singapore, Ấn Ðộ và vùng viễn đông nước Nga. Ở Việt Nam bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 9, đỉnh cao là tháng 6 và 7. Bệnh thường nặng hay để lại di chứng liệt hoặc rối loạn thần kinh, tâm thần. Bệnh viêm não Nhật Bản có tỷ lệ tử vong cao.
Bệnh có ổ chứa thiên nhiên, chủ yếu là lợn và chim. Những động vật khác như trâu bò, ngựa, chó, khỉ.cũng bị nhiễm virut viêm não Nhật Bản nhưng vai trò truyền bệnh của chúng ít quan trọng.
Bệnh lây truyền từ động vật (lợn, chim) sang người qua véc tơ truyền bệnh là muỗi Culex, trong đó chủ yếu là 2 loài Culex tritaeniorhynchus và Culex vishnui. Chim là ổ chứa virut chủ yếu trong thiên nhiên và lợn là ổ chứa quan trọng nhất trong súc vật nui gần người.
Hai loại muỗi trên sinh sản ở đồng ruộng lúa nước, buổi tối bay về chuồng gia súc, hút máu súc vật bị bệnh rồi truyền sang người. Muỗi Culex tritaeniorhynchus có thể bay xa trên 1km, bay cao 13-15m nên có thể lây truyền virut cho các loài chim. Muỗi nhiễm virut có khả năng truyền bệnh suốt đời và truyền sang thế hệ sau qua trứng.
Người và Ngựa được coi là vật chủ cuối cùng của virut vì virut có trong máu người với hiệu giá thấp không đủ để có thể tiếp tục lây truyền sang muỗi.
9. Bệnh tả
Bệnh tả là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính lây qua đường tiêu hóa do phẩy khuẩn tả gây nên. Bệnh có thời kỳ ủ bệnh từ vài giờ tới 5 ngày. Thường từ 2-3 ngày. Bệnh lây khi còn mầm bệnh trong phân. Bệnh lây mạnh nhất trong thời kỳ tiêu chảy. Người lành mang vi khuẩn có thể gieo rắc mầm bệnh trong vài tháng. Sử dụng kháng sinh sẽ rút ngắn thời kỳ lây truyền. Hiếm có những trường hợp mang mầm bệnh kéo dài nhiều năm và đào thải vi khuẩn từng đợt qua phân.
Nguy cơ mắc bệnh rất thay đổi. Người thiểu năng acid dịch vị có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Trẻ bú sữa mẹ ít khi mắc bệnh. Bệnh tả nặng do type sinh học Eltor hoặc O139 thường gặp ở người có nhóm máu O. Sau khi mắc bệnh miễn dịch thu được sẽ bảo vệ chống tái nhiễm trong thời gian dài. Sau khi nhiễm V.cholerae O1 sẽ tránh được type này và type Eltor nhưng ngược lại sau khi nhiễm Eltor thì chỉ bảo vệ khỏi bị type Eltor mà thôi. Nhiễm chủng O1 cũng không bảo vệ khỏi nhiễm chủng O139 và ngược lại.
Tác nhân gây bệnh: Phẩy khuẩn tả (Vibrio cholera) nhóm huyết thanh O1 có 2 type : Cổ điển và Eltor. Những vụ dịch từ năm 1960 trở lại đây chủ yếu do V.Eltor gây ra. Vi khuẩn có 3 type huyết thanh là Inaba, Ogawa và Hikojima. Tuy nhiên, cuối năm 1992, người ta lại phát hiện thêm một type huyết thanh mới là Vibrio Cholera O139. Vi khuẩn có sức đề kháng cao. Ở ngoài môi trường nó có thể sống được nhiều ngày.
Sự lưu hành: Bệnh tả tản phát quanh năm ở đồng bằng miền Nam và duyên hải miền Trung. Thỉnh thoảng bùng phát thành những ổ dịch nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, các nước láng giềng và các nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương vẫn có dịch tả lưu hành.
Ổ chứa: Người bệnh và những người mắc bệnh không có triệu chứng là nguồn bệnh quan trọng.
Gần đây người ta đã chứng minh được ổ chứa vi khuẩn trong môi trường ở các động vật thủy sinh, các động vật phù du sống trong nước mặn và nước lợ ở các vùng cửa sông, đầm phá.
Phương thức lây truyền: Bệnh lây truyền do ăn phải thức ăn hoặc nước uống bị nhiễm phẩy khuẩn tả. Những nguồn nhiễm khuẩn phổ biến là:
• Nước uống : Bị nhiễm ngay từ đầu nguồn (do bị nhiễm phân có phẩy khuẩn tả) hoặc trong quá trình dự trữ (do tiếp xúc với tay người có nhiễm phẩy khuẩn tả) và nước đá bị sản xuất từ nguồn nước bị nhiễm tả.
• Thực phẩm bị nhiễm phẩy khuẩn tả trong/ sau khi chế biến.
• Hải sản bắt được từ những vùng nước bị nhiễm tả và ăn sống hoặc không nấu kỹ.
• Rau quả : Trồng và bón bằng phân tươi, tưới nước có phân người hoặc vẩy nước bị nhiễm rồi ăn sống
Biểu hiện trong các thể bệnh nặng chủ yếu là nôn và tiêu chảy dữ dội phân có màu trắng như nước vo gạo hoặc màu trong lẫn những hạt lổn nhổn trắng như hạt gạo, nếu không được điều trị sẽ nhanh chóng dẫn đến mất nước, nhiễm độc acid, trụy mạch, hạ huyết áp và sốc dẫn tới tử vong. Thể nhẹ giống như tiêu chảy thường. Tỷ lệ mắc/ chết có thể lên tới 50% tùy từng vụ dịch. Nếu được điều trị đúng thì tỷ lệ tử vong chiếm khoảng 1%.
10. Bệnh thương hàn
Thương hàn là một bệnh truyền nhiễm gây dịch lây qua đường tiêu hóa do vi khuẩn thương hàn và phó thương hàn gây nên. Vi khuẩn đột nhập qua đường tiêu hóa tới lách, vi khuẩn nhân lên vào máu và gây ra bệnh cảnh nhiễm trùng nhiễm độc.
Trực khuẩn thương hàn (Salmonella typhi) gram âm, có 107 type kháng nguyên và 3 phó thương hàn là S.enteritidis (Para A), S.schottmulleri (Para B), S.hirschfeldii (Para C). Tỷ lệ mắc bệnh do thương hàn và phó thương hàn là 10:1. Vi khuẩn có sức đề kháng cao. Nó có thể sống hàng tháng ở ngoài môi trường. Ở nhiệt độ 55 độ C nó bị chết sau 30 phút. Cồn và các thuốc sát khuẩn diệt vi khuẩn trong vòng 3-5 phút. Vi khuẩn đã kháng với nhiều kháng sinh cổ điển như Chlorocid, Bactrim, Ampicillin.Nhưng vẫn còn nhạy với Quinolone và Cephalosporine thế hệ 3.
Bệnh phổ biến Ở những nơi kém vệ sinh. Hàng năm trên thế giới có khoảng 17 triệu trường hợp mắc với khoảng 600.000 người chết do thương hàn. Việt Nam có khoảng 10.000 đến 20.000 trường hợp mắc hàng năm. Mỗi năm có khoảng hàng chục trường hợp tử vong. Bệnh tản phát ở nhiều tỉnh hay gặp các vụ dịch nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung, một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ và cả ở miền núi phía Bắc.
Người bệnh và nhất là người lành mang trùng là ổ chứa chính của bệnh thương hàn. Vi khuẩn thương hàn thường sống trong túi mật và đuợc đào thải qua phân trong thời gian dài. Ổ chứa phó thương hàn đôi khi gặp ở vật nuôi trong nhà.
Người bị mắc bệnh do dùng thức ăn hoặc uống nước bị nhiễm trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn. Những phương thức lây truyền phổ biến là:
• Uống nước chưa đung sôi bị nhiễm mầm bệnh (như uống nước lã, nước đá).
• Ăn phải thức ăn bị nhiễm vi khuẩn nhất là ăn trai, sò, ốc, hến. bị nhiễm vi khuẩn từ nguồn nước bị nhiễm bẩn mà chưa được nấu chín.
• Rau quả : Ăn sống rau quả được bón bằng phân tươi.
• Sữa và các chế phẩm từ sữa bị nhiễm vi khuẩn thương hàn khi chế biến.
• Ruồi gây nhiễm bẩn thực phẩm và trong môi trường thực phẩm đó vi khuẩn nhân lên đủ liều gây bệnh.
Vi khuẩn có trong phân người bệnh từ tuần thứ nhất đến hết thời kỳ lại sức (khoảng 1-3 tuần). Khoảng 10% bệnh nhân không được điều trị sẽ thải vi khuẩn qua phân trong vòng 3 tháng và khoảng 2-5% số bệnh nhân trở thành người mang trùng mãn tính.
Bệnh cảnh lâm sàng thường có sốt tăng dần, rối loạn tiêu hóa, bụng chướng có dấu hiệu ùng ục hố chậu phải, phát ban dạng sởi ở vùng quanh thắt lưng. Ðộc tố thương hàn tác động vào các mảng bạch huyết ở họng và ruột gây ra loét họng, loét ruột gây chảy máu ruột. Ðộ? tố cũng gây nhiễm độc cơ tim gây viêm cơ tim, trụy tim mạch. Nhiễm độc tố vào não thất 3 gây mạch nhiệt phân ly, não viêm thương hàn.
Trường hợp nhẹ giống như viêm dạ dày ruột gây ỉa chảy thường.
Chẩn đoán xác định khi cấy máu có mọc vi khuẩn thương hàn. Các xét nghiệm bổ sung giúp cho chẩn đoán là phản ứng Widal hoặc sử dụng kháng thể đơn dòng phát hiện kháng nguyên H trong máu bệnh nhân.
Viện Pasteur TP. HCM
Theo Tạp chí Sức Khỏe